Qua 80 năm hình thành và phát triển, ngành Bưu chính Viễn thông và Khoa học Công nghệ ghi dấu ấn trong những cột mốc lịch sử quan trọng của đất nước – từ vai trò “huyết mạch” thông tin trong các cuộc kháng chiến đến động lực tiên phong kiến tạo kỷ nguyên số.
1945 – 1954
Giá trị tốc độ thông tin và sức nặng tri thức
Từ những bước chân giao liên đến Cách mạng Tháng Tám
Hệ thống liên lạc đóng vai trò chiến lược trong Cách mạng Tháng 8 với mạng lưới giao liên được thiết lập từ Pác Bó (Cao Bằng) kết nối xuyên suốt ba miền. Từ những ngày đầu phong trào, mạng lưới này đã trở thành huyết mạch thông tin, đảm bảo sự chỉ đạo kịp thời của Đảng.
Ngày 15/8/1945 – bốn ngày trước Cách mạng Tháng Tám, Ban Giao thông chuyên môn ra đời. Lực lượng này nhanh chóng chuyển chỉ thị khởi nghĩa, góp phần dẫn đường cho cuộc mít tinh lịch sử giành chính quyền tại Hà Nội và truyền tin thắng lợi đến khắp cả nước. Sự kiện này đánh dấu mốc son của ngành Bưu chính viễn thông.

1945 – 1954
Chiến thắng Điện Biên Phủ: vai trò của hệ thống thông tin thông suốt
Ban Giao thông chuyên môn đã khẳng định vai trò “huyết mạch” trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ “Mệnh lệnh Toàn quốc kháng chiến” được phát đi từ Bưu điện Bờ Hồ, đến việc duy trì mạng lưới liên lạc thông suốt trong 9 năm. Đặc biệt, hệ thống hữu tuyến điện đã truyền tải kịp thời mọi mệnh lệnh từ Bộ chỉ huy đến các đơn vị, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

1945 – 1954
Xây dựng nền móng cho Khoa học Công nghệ Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám, một thế hệ trí thức tiên phong đã đặt nền móng cho khoa học công nghệ Việt Nam. Các giáo sư Hồ Đắc Di, Phạm Ngọc Thạch (y học), Ngụy Như Kon Tum (vật lý), Nguyễn Xiển (khí tượng)… không chỉ cống hiến tri thức mà còn đào tạo đội ngũ, xây dựng nền khoa học công nghệ sơ khai. Những cống hiến quý giá như súng Bazooka của kỹ sư Trần Đại Nghĩa, ”nước lọc penicillin” của giáo sư Đặng Văn Ngữ đã khẳng định vai trò của khoa học trong sự nghiệp kháng chiến, theo đúng tinh thần “Kiến thiết cần có nhân tài” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1945 – 1954
Gieo tiếp những hạt mầm khoa học
Tháng 7/1951, Việt Nam cử đoàn cán bộ đầu tiên sang Liên Xô học tập, mở đầu cho kỷ nguyên hợp tác khoa học công nghệ. Hàng nghìn tiến sĩ và kỹ sư đã được đào tạo trong các thập kỷ tiếp theo. Họ trở thành những trụ cột quan trọng, tiếp tục củng cố vững chắc cho sự phát triển của nền khoa học công nghệ Việt Nam.

1954 – 1975
Dấn thân cho nghiệp lớn
Bưu điện Việt Nam: vững mạnh trong lửa đạn
Sau năm 1954, ngành bưu điện khẩn trương khôi phục và phát triển. Trong 10 năm đầu, mạng lưới điện miền Bắc đã được xây dựng với 19.147 km đường cột và 36.645 km đôi dây. Giai đoạn 1961-1964, các cơ sở công nghiệp đã sản xuất gần 10.000 máy điện thoại và 2.000 tổng đài. Trước sự leo thang chiến tranh, mạng lưới thông tin vẫn được duy trì, đặc biệt trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”. Ngành đã đào tạo và chi viện cho miền Nam hơn 2.000 công nhân cùng thiết bị, đóng góp lớn vào công cuộc thống nhất đất nước.

1954 – 1975
Sợi dây vô tuyến: Huyết mạch của chiến trường miền Nam
Ngành thông tin vô tuyến điện miền Nam, với 300 máy thu phát vào năm 1963 (trong đó 250 tự lắp ráp), đã duy trì thông suốt liên lạc trong suốt 20 năm kháng chiến. Lượng lưu thoát điện báo tăng vọt từ 3.000-4.000 bức/tháng năm 1968 lên 80.000 bức/tháng cuối năm 1973. Dưới mưa bom bão đạn, các chiến sĩ giao bưu vẫn kiên cường đảm bảo mạch máu thông tin từ Trung ương đến chiến trường.

1954 – 1975
Sức mạnh trí tuệ Việt trong chiến tranh
Liên Xô đã chuyển giao nhiều vũ khí hiện đại cho Việt Nam nhưng sự chủ động sáng tạo của trí tuệ Việt góp phần quan trọng làm nên những kỳ tích trong kháng chiến chống Mỹ. Các kỹ sư đã chủ động cải tiến hệ thống tên lửa SAM-2 với 40 nội dung kỹ thuật giúp bắn hạ máy bay B-52, một thành tích duy nhất trên thế giới. Ngoài ra, họ còn tự sản xuất máy phóng thủy lôi phá mìn từ trường, làm nên chiến thắng trong cuộc chiến chống phong tỏa đường biển.

1954 – 1975
Dấu ấn khoa học công nghệ của thế hệ vàng 1960-1970
Giai đoạn 1960 – 1970 có hàng loạt tấm gương cống hiến hết mình trong khoa học trên nhiều lĩnh vực. Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã góp công đẩy lùi bệnh sốt rét, trong khi Giáo sư Bùi Huy Đáp nghiên cứu lúa vụ Xuân, vụ Đông với giống lúa IR8, góp phần đảm bảo an ninh lương thực. Cùng thời điểm, Giáo sư Đào Duy Anh biên soạn các công trình sử học quan trọng. Những tên tuổi như Tôn Thất Tùng, Hoàng Tụy và Nguyễn Đình Tứ còn có các công trình xuất sắc gây tiếng vang trên trường quốc tế.

1975 – 1990
Hành trình Đổi mới
Từ analog đến digital: Bước đột phá của ngành Bưu điện
Sau chiến tranh, ngành Bưu điện đối mặt với hàng loạt thách thức: công nghệ lạc hậu, thiếu vốn đầu tư và chất lượng dịch vụ thấp. Các tổng đài analog cũ kĩ khiến cuộc gọi quốc tế phải chờ hàng tuần.
Tuy nhiên, ngành đã quyết đoán đổi mới, không phụ thuộc ngân sách mà tự vay vốn để hiện đại hóa. Thay vì tiếp tục sử dụng công nghệ analog, ngành đã đi thẳng vào công nghệ số. Tháng 7/1987, dự án hợp tác với OTC (Telstra – Australia) triển khai trạm vệ tinh VISTA tại TP HCM đã đánh dấu bước đi đột phá, mở ra kỷ nguyên mới cho Bưu điện Việt Nam.

1975 – 1990
Khoa học công nghệ Việt Nam thập niên 1980
Thập niên 1980, cùng chính sách Đổi mới, khoa học công nghệ bắt đầu có bước chuyển mình. Trong nông nghiệp, việc ứng dụng giống lúa năng suất cao càng tạo đà cho Khoán 10, giúp Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Khoa học cũng tiếp tục bổ sung thêm nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Lò hạt nhân Đà Lạt được khôi phục và nâng cấp, phục vụ cho nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử, đặc biệt là y học hạt nhân. Ngành dầu khí tạo đột phá nhờ phát hiện dầu ở tầng đá móng và áp dụng thành công kỹ thuật bơm ép nước vào vỉa tại mỏ Bạch Hổ.
Tuy nhiên, tư duy quản lý hệ thống các tổ chức khoa học công nghệ vẫn chưa thực sự đổi mới. Mô hình kế hoạch hóa tập trung tiếp tục duy trì, bộc lộ sự cồng kềnh, thiếu linh hoạt, là thách thức không dễ giải quyết.

1990 – 2025
Tăng tốc và hội nhập
Cuộc cách mạng viễn thông Việt Nam
Với tư duy đổi mới, ngành bưu điện và viễn thông Việt Nam đã có những bước phát triển ấn tượng. Năm 1993, sự ra đời của mạng GSM MobiFone đã mở đầu kỷ nguyên dịch vụ di động. Sau hơn 30 năm, cả nước có 120 triệu thuê bao, với tốc độ tải xuống băng rộng di động và cố định lần lượt xếp hạng 18/104 và 13/153 trên thế giới.
Việt Nam có tuyến cáp quang biển đầu tiên từ 1996, đến nay đã có 6 tuyến. Cuối 1997, Việt Nam kết nối Internet với thế giới. Đến nay, cả nước có hơn 130 triệu thuê bao băng rộng. Đặc biệt, từ năm 2023, Việt Nam đã chủ động sản xuất thiết bị mạng 5G, vươn lên thành một trong số ít quốc gia làm chủ công nghệ này.

1990 – 2025
Những bước tiến của công nghệ “Make in Vietnam”
Từ những năm 1990 đến nay, Việt Nam đã làm chủ và tự thiết kế, thi công hàng loạt công trình hạ tầng trọng điểm như các tuyến đường dây 500 kV hay thủy điện Sơn La, Lai Châu. Trong y học, nước ta đã làm chủ công nghệ sản xuất và xuất khẩu nhiều loại vaccine.
Về công nghệ quốc phòng, Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo thành công các loại radar hiện đại VRS-2DM, VRS-SRS (năm 2015) và tổ hợp tên lửa VCS-01 “Trường Sơn” (năm 2024).
Khoa học công nghệ Việt Nam dần chiếm tỉ trọng giá trị ngày càng cao trong các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, làm tăng năng suất, chất lượng, tạo động lực phát triển nhiều ngành công nghiệp.

2025
Kỷ nguyên mới
Theo Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là những đột phá chiến lược để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, với kinh tế số chiếm tối thiểu 50% GDP. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, việc hợp nhất Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Bộ Thông tin và Truyền thông thành một bộ mới vào ngày 1/3/2025 là bước đi chiến lược.
Sau hơn ba tháng thành lập, Bộ Khoa học và Công nghệ đã được Quốc hội thông qua 5 luật quan trọng, trình Thủ tướng 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm chiến lược, xác định ba sản phẩm công nghệ cấp thiết cần được ưu tiên. Sự kết hợp giữa truyền thống bồi đắp kiến tạo của khoa học công nghệ và sự quyết đoán, thần tốc của bưu chính, viễn thông được kỳ vọng thúc đẩy nhanh những đột phá của ngành, đóng góp cho sự phát triển đất nước.

Nguồn: Viên Minh, Thanh Hạ (vnexpress.net)